1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm. Các chính sách cũng như các quy định pháp luật trong các lĩnh vực đều lồng ghép bình đẳng giới tạo ra cơ hội được đối xử bình đẳng giữa nam và nữ. Các biện pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới được đưa ra thông qua việc ghi nhận quyền không bị phân biệt đối xử về giới cũng như trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo đảm quyền bình đẳng đó. Một trong các biện pháp đó chính là tuyên truyền bình đẳng giới thông qua các phương thức truyền thông. Tuy nhiên, trên thực tế, trong nội dung của các bài viết, bản tin, … lại chứa đựng vấn đề bất bình đẳng về giới mặc dù có thể không cố ý. Do vậy, truyền thông đôi khi lại vấp phải khiếm khuyết tuyên truyền lệch về giới, tạo một sự bất bình đẳng về giới ngầm, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thúc đẩy mục tiêu bình đẳng giới mà quốc tế nói chung, Việt Nam nói riêng đang thực thi. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này ở Việt Nam hiện nay một phần xuất phát từ thể chế pháp lý về bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông. Vì vậy, bên cạnh công tác tập huấn nâng cao nhận thức, hiểu biết về bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông thì vấn đề hoàn thiện thể chế pháp lý liên quan đến vấn đề này là hết sức quan trọng. Thể chế pháp lý tạo ra cơ sở pháp lý, sự tuân thủ nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội nói chung, trong báo chí, truyền thông nói riêng.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái quát về thể chế pháp lý bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông
Theo Võ Thị Mai (2013), “Bảo đảm bình đẳng giới nói chung được hiểu là cách thức mà Nhà nước tạo ra những điều kiện và biện pháp để thúc đẩy sự bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội”.(tr15). Do vây, bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông chính là việc tạo ra sự bình đẳng, không bị phân biệt về giới trong các nội dung phản ánh các chủ thể thông qua kênh báo chí, truyền thông. Một trong những công cụ hữu hữu hiệu để bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông đó chính là thể chế pháp lý, là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề bình đẳng giới trong hoạt động báo chí và truyền thông.
Thể chế pháp lý bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông bao gồm thể chế quốc tế và thể chế quốc gia. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài viết tác giả nhấn mạnh về thể chế quốc gia. Theo đó, các quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông trước hết là những ghi nhận chung, những nguyên tắc tại Hiến pháp, Luật bình đẳng giới và những quy định riêng tại các văn bản chuyên ngành đặc biệt là Luật báo chí. Ngoài ra, còn có những văn bản dưới Luật quy định chi tiết hướng dẫn thi hành.
Thể chế pháp lý bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông trong bối cảnh công nghệ số phải đáp ứng được những yêu cầu như sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật về bình đẳng giới phải trở thành nguyên tắc tác nghiệp quy định tại Luật báo chí. Từ nguyên tắc này, nội quy của các toà soạn, quy tắc của các trang thông tin, … phải chứa đựng nội dung tuân thủ các quy định pháp luật trong đó có vấn đề về bình đẳng giới.
Thứ hai, các quy định pháp luật vè bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông phải có nội dung về trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong việc bảo đảm bình đẳng giới
Thứ ba, chế tài xử phạt khi những tin bài có chứa nội dung gây bất bình đẳng về giới phải rõ ràng và có tính răn đe, giáo dục cao.
2.1. Thực trạng thể chế pháp lý về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật ghi nhận về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông ở Việt Nam hiện nay
Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận gián tiếp bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông thông qua những quy định về bảo đảm bình đẳng giới nói chung cụ thể như sau:
Khung pháp lý về bình đẳng giới nói chung tại Việt Nam khá hoàn thiện và chặt chẽ. Cụ thể, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 1982. Tại Hiến pháp năm 2013, vấn đề bình đẳng giới được ghi nhận ở Điều 26 cụ thể: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; 2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Đây chính là nguyên tắc tạo ra sự tôn trọng, không phân biệt về giới mà các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ trong đó có các tác giả tin bài.
Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật về phòng chống bạo lực gia đình năm 2007. Đây là những bước tiến tích cực về mặt thể chế, tạo được môi trường pháp lý duy trì sự công bằng và khuyến khích sự tham gia của cả hai giới trong nhiều lĩnh vực. Điều 6 – Luật bình đẳng giới năm 2006 khẳng định nguyên tắc “Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân”. Ngoài ra, tại các văn bản pháp luật chuyên ngành như Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, … cũng đã cấm các hành vi phân biệt đối xử về giới trong lĩnh vực điều chỉnh.
Luật báo chí năm 2016 đã ghi nhận gián tiếp sự tôn trọng vấn đề bình đẳng giới thông qua quy định trách nhiệm tuyên truyền pháp luật nói chung, những hành vi xâm phạm đến quyền. lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội ở các tin bài cũng bị nghiêm cấm. Ngoài ra, trong các nghĩa vụ của nhà báo tại Điều 25 cũng quy định về nghĩa vụ “Bảo vệ quan Điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, tuyên truyền và bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm”.
Mặt khác, để nâng cao tính tuân thủ, thượng tôn pháp luật cũng như đưa ra những định hướng phù hợp về hành vi xử sự tôn trọng bình đẳng giới, ngày 28/12/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 125/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới, thay thế Nghị định số 55/2009/NĐ-CP. Theo đó, tại khoản 3 - Điều 11 của nghị định đa quy định mức xử phạt hành vi vi phạm bình đẳng giới liên quan đến lĩnh vực văn hoá, thể dục, thể thao: “ Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Sáng tác, lưu hành, xuất bản hoặc cho phép xuất bản các tác phẩm, văn hóa phẩm có nội dung cổ vũ, tuyên truyền phân biệt đối xử về giới, định kiến giới dưới bất kỳ thể loại, hình thức nào; b) Truyền bá tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức”
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện này đang còn thiếu vắng những quy định mang trực tiếp về vấn đề bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông. Điều này dẫn đến những tin bài được đăng tải mà tác giả không hề biết hoặc không để ý nội dung tin bài chứa đựng định kiến về giới. Đồng thời, khi có vi phạm đó xảy ra thì chủ yếu nhắc nhở, đính chính mà chưa có hình phạt mang tính răn đe. Khi thể chế pháp lý chứa được hoàn thiện thì rõ ràng những hành vi vi phạm về bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông vẫn tiếp tục diễn ra. Có thể đưa ra một số hạn chế về mặt pháp lý về bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông như sau:
Thứ nhất: Luật bình đẳng giới chưa có những quy định trực tiếp về bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực báo chí, truyền thông.
Trước hết, Luật bình đẳng có quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong xã hội trong việc thúc đẩy bình đẳng giới nói chung như Quốc hội, Chính phủ, cơ quan nhà nước khác, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội tại Chương 4 mà không có trách nhiệm của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp. Mặt khác, trong các hành vi bị nghiêm cấm và bị coi là vi phạm về bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá tại khoản 6 – Điều 40 thì chỉ đề cập đến những hành vi như: “Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các hoạt động văn hóa khác vì định kiến giới; b) Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới, định kiến giới; c) Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện hoặc xúi giục người khác thực hiện phong tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức”. Trong khi đó, trên thực tế, các tác giả vẫn đăng những tin bài có nội dung chứa đựng sự bất bình đẳng giới một cách vô ý (không cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới) nhưng cũng tạo ra định kiến trong xã hội lại chưa được quy định trở thành hành vi bị cấm tại điều này.
Thứ hai, Luật báo chí chưa thực hiện việc lồng ghép bình đẳng giới, thúc đẩy bình đẳng giới tại các quy định
Một trong những yêu cầu của thúc đẩy bình đẳng giới tại Việt Nam là việc rà soát, bổ sung các biện pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực. Tuy nhiên, với chức năng quan trọng tuyên truyền chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước nhưng lĩnh vực truyền thông, báo chí lại thiếu đi những quy định trực tiếp về bảm đảm bình đẳng giới trong chính nội dung tin bài, các sản phẩm báo chí khác, ... và chưa thực sự lồng ghép các quy định về bảo đảm bình đẳng giới vào các quy định mang tính chất nghiệp vụ. Trong các hành vi nghiêm cấm tại Điều 9 – Luật báo chí năm 2016 đã liệt kê tới 13 hành vi lớn và các hành vi cụ thể bị cấm trong lĩnh vực báo chí, truyền thông nhưng không có quy định về hành vi như tin bài, các sản phẩm báo chí, truyền thông khác có chứa nội dung gây định kiến về giới hoặc tạo ra sự bất bình đẳng về giới.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam còn thiếu sót những quy định về xử phạt vi phạm về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông
Nghị định số 125/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới và Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản là những văn bản quy định về vấn đề xử lý hành vi vi phạm về bình đẳng giới trong các lĩnh vực nói chung và trong báo chí, truyền thông nói riêng. Tuy nhiên, trong các văn bản này không có quy định về hành vi vi phạm khi đăng tải thông tin gây ra định kiến về giới và mức xử phạt tương ứng. Đây cũng chính là một hạn chế và cũng là nguyên nhân khiến cho các tác giả những tin bài chứa nội dung gây định kiến về giới không nhận thức rõ được những tác động tiêu cực của các bài viết trong việc thúc đẩy bình đẳng giới mà Việt Nam đã và đang nỗ lực đạt tới như hiện nay.
2.1.2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông ở Việt Nam hiện nay
Luật Bình đẳng giới quy định việc thông tin, giáo dục, truyền thông về bình đẳng giới là một giải pháp hết sức quan trọng, nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới, qua đó góp phần thực hiện có hiệu quả những mục tiêu trong Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020. Tuy nhiên, dù Luật Bình đẳng giới đã có những quy định, nhưng trên thực tế có lúc, có nơi các nhà báo vẫn thông tin, tuyên truyền sai lệch mà không hay biết? Trên thực tế vẫn còn những biểu hiện sai lệch trong nhận thức về giới, đặc biệt là trong lĩnh vực lao động, việc làm, như: nhiều nhà tuyển dụng trong nước, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng tuyển nam giới và nữ giới cho các công việc cụ thể, nhưng luôn kèm theo các tiêu chuẩn chênh lệch về tuổi tác, chiều cao, cân nặng, … nhưng một số báo chí và kênh truyền hình vẫn “vô tư” đăng các thông tin này mà không có sự đối chiếu, xem xét kỹ.
Theo Lâm Quân (2013), những năm gần đây, quảng cáo trên một số phương tiện thông tin đại chúng vẫn thể hiện tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dưới nhiều hình thức. Ví dụ như, quảng cáo về nước lau sàn, thực phẩm, máy giặt, tủ lạnh,… thì hầu hết các nhân vật chính là phụ nữ, trong khi cũng là quảng cáo, hình ảnh người đàn ông luôn gắn với các loại nước uống, xe máy, xe hơi, điện thoại di động, … Định kiến về giới thông qua các phương tiện truyền thông sẽ trở nên phổ biến và gây ảnh hưởng đến người tiếp nhận thông tin theo cách không thể lường trước được.
Đại diện Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển (CGFED) đã đưa ra kết quả nghiên cứu cho thấy các thông tin truyền thông có sự hiện diện của nữ giới chiếm tỷ lệ thấp hơn nam giới trong hầu hết các lĩnh vực. Cụ thể, sự xuất hiện của phụ nữ trên các bản tin về nghệ thuật, tin kỷ niệm chỉ chiếm 26%, tin khoa học, sức khỏe (32%), xã hội, pháp luật (24%), kinh tế (20%), chính trị (19%).
Sở Thông tin-Truyền thông thành phố Đà Nẵng phối hợp Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố và Cơ quan Phụ nữ Liên Hợp Quốc (UN Women) đã tổ chức tọa đàm về bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực truyền thông với sự tham gia của các cơ quan, thông tấn báo chí trên địa bàn thành phố. Tại tọa đàm, báo cáo của UN Women cho thấy, thực trạng bất bình đẳng về giới diễn ra ngay chính trong lĩnh vực truyền thông, qua các con số thống kê cụ thể như: các tin tức phát đi hằng ngày trên thế giới chỉ có ¼ người được phỏng vấn, được nhìn thấy hoặc nghe thấy là phụ nữ; hình ảnh phụ nữ xuất hiện trong các bộ phim về anh hùng chỉ chiếm 23%, các quảng cáo trên truyền hình thì phụ nữ xuất hiện nhiều chỉ ở vai trò nội trợ, giặt giũ còn nam giới là hình ảnh hưởng thụ; phụ nữ chỉ chiếm 27% các vị trí quản lý cao trong các cơ quan thông tấn báo chí trên toàn cầu, … Bên cạnh bất bình đẳng về giới, phụ nữ còn là đối tượng gánh chịu bạo lực gia đình và định kiến giới. Ví dụ một số tiêu đề bài báo như “Thanh tra kho bạc đánh vợ vỡ tim vì mặc váy ngắn đi ăn cưới”, “Chồng nóng tính, vợ càng phải mềm mỏng”, “Phụ nữ không có năng khiếu, đừng cố cầm vô lăng”, “Phụ nữ ế không hạ tiêu chuẩn để lấy chồng”, … Đây là những bài báo ít nhiều có vấn đề về giới, liên quan đến định kiến giới, nhạy cảm giới, … Bên cạnh đó, trong nội dung ở các tin, bài lại vô tình hạ thấp hình ảnh người phụ nữ, kiểu như “tàu điện một ray như cô gái đẹp không làm được việc”, “nông sản Việt như cô gái đẹp chỉ ngồi ở nhà chờ người khác”, “cô gái đẹp sẽ thành con hổ mới”, …
Qua đó, có thể nhận thấy việc các tác giả của các sản phẩm báo chí, truyền thông, bộ phận duyệt tin bài của các cơ quan báo chí vẫn chưa thực sự chú trọng và nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo đảm bình đẳng giới. Trong bối cảnh công nghệ số, khi tính cập nhật có thể tính bằng giây thì chất lượng của các tin bài vẫn chưa được quan tâm đúng mực dưới góc độ phải nhìn nhận đa chiều trong đó có cả vấn đề bình đẳng giới. Đây được coi là hạn chế mà đội ngũ tác giả đang gặp phải. Và khi có vi phạm xảy ra, chế tài chủ yếu áp dụng là đính chính, hoặc gỡ bài chứ chưa có những hình thức đủ sức răn đe khác.
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông ở Việt Nam hiện nay
Như vậy, qua những phân tích về thực trạng ghi nhận cũng như tổ chức thực hiện những quy định về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông ở Việt Nam như đã đề cập ở phần trên, có thể đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần rà soát và bổ sung các quy định tại Luật bình đẳng giới nhằm thúc đẩy bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông tại các văn bản quy phạm pháp luật
Theo đó, trước hết, Luật bình đẳng giới cần bổ sung trách nhiệm của tổ chức chính trị, xã hội nghề nghiệp trong việc bảo đảm bình đẳng giới. Với sự mở rộng trách nhiệm này sẽ tạo ra nghĩa vụ thực hiện của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thông để có những định hướng, quy định cụ thể cho cơ quan trong việc tuân thủ quy định về bình đẳng giới trong các tin bài, sản phẩm báo chí, truyền thông, … Bổ sung thêm hành vi bị coi là vi phạm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá : “Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình thức nào để cổ vũ, tuyên truyền hoặc có nội dung liên quan đến bất bình đẳng giới, định kiến giới”. Quy định này sẽ giúp cho các tác giả cân nhắc về tên sản phẩm hoặc những nội dung gây ra sự bất bình đẳng hoặc định kiến về giới.
Thứ hai, cần lồng ghép vấn đề bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí và truyền thông trong các văn bản pháp luật về báo chí
Đối với Luật báo chí, cần sử đổi theo hướng quy định lổng ghép tôn trọng và tuân thủ vấn đề bình đẳng giới trong nội dung các sản phẩm báo chí, trở thành nghĩa vụ của nhà báo. Đồng thời, bổ sung hành vi bị nghiêm cấm đó là hành vi gây ra bất bình đẳng về giới và định kiến về giới tại Điều 9 – Luật báo chí năm 2016. Ngoài ra, về trách nhiệm của Tổng biên tập, về vấn đề duyệt tin, xuất bản cũng cần quy định thêm về bảo đảm bình đẳng giới trong các nội dung.
Bên cạnh đó, trong các văn bản dưới Luật quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, cần bổ sung về quy định các nội quy của các tổ chức báo chí, truyền thông phải đưa nội dung tuân thủ pháp luật nói chung, pháp luật về bình đẳng giới nói riêng trở thành tiêu chí duyệt bài, xuất bản.
Thứ ba, cần phải bổ sung hành vi vi phạm về bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông cũng như quy định mức xử phạt đủ sức răn đe.
Theo đó, cần bổ sung quy định về hành vi gây ra bất bình đẳng về giới, định kiến về giới trong các sản phẩm báo chí, truyền thông cũng là một là một hành vi vi phạm và bị xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời, trách nhiệm của tổng biên tập, bộ phận duyệt đăng, … cũng sẽ liên đới chịu trách nhiệm trong vấn đề này.
3. KẾT LUẬN
Từ những phân tích ở trên có thể nhận thấy mặc dù vấn đề bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông đã được quan tâm tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, tình trạng các sản phẩm báo chí chứa đựng những nội dung bất bình đẳng giới, định kiến về giới vẫn xảy ra khá thường xuyên. Tuy nhiên, pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này vẫn chỉ dừng lại ở những quy định về bình đẳng giới nói chung và thiếu đi những quy định trực tiếp về hành vi vi phạm, về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức liên quan cũng như mức xử phạt chưa đủ sức răn đe. Do đó, cần thiết phải rà soát, bổ sung những quy định trực tiếp cũng như lồng ghép vẫn đề bảo đảm bình đẳng giới trong báo chí, truyền thông tại Luật bình đẳng giới, Luật báo chí và những văn bản có liên quan, Đồng thời, xác định hành vi gây ra bất bình đẳng giới, đinh kiến giới trong các sản phẩm báo chí, truyền thông cũng là hành vi vi phạm cần có những mức xử lý phù hợp đủ sức răn đe, Có như vây, mới tạo ra được nghĩa vụ tuân thủ trong việc bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới cho các tác giả báo chí, truyền thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Thu Hường. (2016). Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. (Luận văn thạc sĩ). Học viện khoa học xã hội.
2. Võ Thị Mai.(2013). Đánh giá chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng. Hà Nội: NXB chính trị quốc gia.
3. Lâm Quân.(2013). Thúc đẩy bình đẳng giới trong truyền thông. Lấy từ Hội thảo: “Thúc đẩy bình đẳng giới trong truyền thông” - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
4. Quốc hội. (2020). Luật bình đẳng giới. Hà Nội: NXB chính trị quốc gia
5. Quốc hội. (2020). Luật báo chí. Hà Nội: NXB thông tin và truyền thông
6. Quốc hội. (2014). Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội: NXB tư pháp
7. Cẩm Thuý. (2021). Nhặt “sạn” về giới trong truyền thông. Lấy từ Nhặt “sạn” về giới trong truyền thông (baobaclieu.vn)
8. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hoá. (2012). Bộ chỉ số về giới trong truyền thông
Tác giả: NCS.Ths. Dương Thị Hải Yến – Ths. Nguyễn Khánh Ly
Trường Đại học kinh tế Nghệ An