Cách đây tròn 80 năm, toàn thể dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt trận Việt Minh và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã nhất tề vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa, đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ tại Việt Nam, đánh đuổi phát xít Nhật, lật nhào chế độ phong kiến hàng nghìn năm, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, không “bảo hộ” mà bán nước ta cho Nhật. Từ đó, dân ta càng cực khổ nghèo nàn với hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật.
Năm 1941, phát xít Đức mở cuộc tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Trên thế giới hình thành hai trận tuyến: một bên là lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu, một bên là khối phát xít Đức, Ý, Nhật.
Tháng 5-1941, sau khi về nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (Hội nghị lần thứ tám) hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng. Hội nghị đã nêu một số mâu thuẫn cần giải quyết lúc bấy giờ như mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp – phát xít Nhật, chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) gồm các tổ chức quần chúng để giải phóng dân tộc.
.jpg)
Khẩu hiệu kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đặc biệt là sự lãnh đạo và trực tiếp chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh không chỉ làm cho khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng, củng cố, phát huy tinh thần “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” mà còn nâng lực lượng của khối đại đoàn kết đó lên một trình độ mới, một chất lượng mới - có hệ tư tưởng, có tổ chức, có lãnh đạo, nhanh chóng trở thành hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc. Lực lượng cách mạng giương cao ngọn cờ đại nghĩa của Việt Minh ngày càng được mở rộng và phát triển không ngừng.
Đầu tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến những ngày cuối cùng. Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức và chấm dứt chiến sự ở châu Âu, các nước trong phe Đồng minh (đứng đầu là Mỹ và Liên Xô) dồn sức tiêu diệt phát xít Nhật ở châu Á, buộc chính phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện (13/8/1945). Tin tức đầu hàng nhanh chóng lan đi khắp mặt trận, quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt, mất tinh thần chiến đấu, chính phủ bù nhìn hoang mang cực độ. Theo sự thỏa thuận của các nước Đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh-Pháp sẽ vào miền Nam Việt Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị, nô dịch của chúng.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, từ ngày 13-15/8/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã đến, cần phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh kéo vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Tiếp ngay sau đó, Đại hội quốc dân cũng được tổ chức ở Tân Trào (ngày 16/8/1945). Hơn 60 đại biểu của ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ); đại biểu kiều bào ở nước ngoài; đại biểu các đảng phái; các đoàn thể dân tộc, tôn giáo đại diện cho các giới, các đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân quy tụ tại Đại hội. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh.
.jpg)
Lệnh tổng khởi nghĩa được phát hành rộng rãi và được toàn thể nhân dân đồng tình hưởng ứng (Ảnh tư liệu) .
Chiều 16/8/1945, thực hiện mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, một đội quân cách mạng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về giải phóng Thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước.
Nhiều địa phương tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng Cộng sản Đông Dương, căn cứ vào tình hình thực tiễn đã kịp thời, chủ động, sáng tạo, linh hoạt nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam (ngày 18/8/1945).
Tại Hà Nội, không khí cách mạng vô cùng sôi động. Các tầng lớp nhân dân hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ chiến đấu; truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi khởi nghĩa xuất hiện khắp nơi. Đến ngày 19/8, khí thế cách mạng tràn ngập khắp thủ đô, Nhân dân kéo tới quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình, Nhân dân nhanh chóng chiếm phủ Khâm sai, Toà Thị chính, trại lính bảo an, Sở cảnh sát và các công sở của chính phủ bù nhìn. Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Thủ đô hoàn toàn thắng lợi.
.jpg)
Nhân dân Hà Nội chiếm Bắc bộ phủ, tháng 8 năm 1945 (Ảnh tư liệu)
Cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội thắng lợi có tác dụng cổ vũ to lớn phong trào cả nước. Ngày 23/8, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ và Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, Nhân dân ta nổi dậy làm chủ thành phố Huế - kinh đô hàng trăm năm của chế độ phong kiến triều Nguyễn và là thủ phủ của chính quyền bù nhìn trung ương. Vua Bảo Đại buộc phải thoái vị đặt dấu chấm hết cho vương triều Nguyễn – vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Ngày 25/8, Xứ ủy Nam Kỳ đã lãnh đạo nhân dân Sài Gòn biểu tình, cướp chính quyền và giành quyền làm chủ, đánh đổ thành lũy cuối cùng của chế độ thực dân. Thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước. Trong vòng nửa tháng (từ 14 - 28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân.
.jpg)
Cảnh Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm được tái hiện tại bảo tàng Lịch sử - Cách mạng Thừa Thiên - Huế.
Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến; đồng thời trịnh trọng tuyên bố với thế giới: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.
.jpg)
Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Ảnh tư liệu)
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nước ta từ một nước thuộc địa và nửa phong kiến, trở thành một nước độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đúc kết bài học quý về quy tụ nhân tâm, quy tụ lòng người; bài học về sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp hài hòa “ý Đảng với lòng dân”, như một quy luật lịch sử tất yếu khách quan. Tin dân, dựa vào dân, hiểu thấu dân tâm là truyền thống quý báu trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta, trở thành một giá trị tiêu biểu của nền văn hóa-chính trị Việt Nam hiện đại. 80 năm đã trôi qua nhưng những bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị, cần được các cấp, các ngành và mỗi cán bộ, đảng viên nắm vững để vận dụng vào thực tiễn một cách thiết thực và hiệu quả cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong